Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 - Những phát hiện chính

|

Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020 - Những phát hiện chính

Điều tra nô;ng thô;n, nô;ng nghiệp giữa kỳ năm 2020  tiến hành vào thời đim 01/7/2020 theo Quyết định số 1695/QĐ-TCTK ngày 31/12/2019 ca Tng cục trưởng Tổng cục Thống kê. Đây là cuộc điều tra chọn mẫu quy mô; lớn trên phạm vi cả nước. Dưới đây là một số nét chính về tình hình kinh tế - xã hội nô;ng thô;n và sản xuất nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2016-2020 qua kết quả điều tra
 
Số xã, thô;n và số hộ, nhân khẩu nô;ng thô;n tại thời điểm điều tra có một số biến động
 
Theo kết quả điều tra, tại thời điểm 01/7/2020 khu vực nô;ng thô;n cả nước có 8.297 xã với 66.206 thô;n (ấp, bản), So với 01/7/2016, giảm 681 xã và 13.692 thô;n.
 
Số hộ và số nhân khẩu khu vực nô;ng thô;n có sự biến động khác biệt so với xu hướng thu hẹp về số xã, thô;n. Tại thời điểm 01/7/2020, khu vực nô;ng thô;n cả nước có 16.880,47 nghìn hộ dân cư với 62.885,27 nghìn nhân khẩu. Tính ra, trong 5 năm (2016 - 2020), khu vực nô;ng thô;n tăng 5,59% về số hộ và tăng 9,05% về số nhân khẩu.
 
Thành tựu kinh tế - xã hội đạt được trong 5 năm 2016 - 2020
 
(1) Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và mô;i trường khu vực nô;ng thô;n được tăng cường cả số lượng và chất lượng
 
Mạng lưới cung cấp điện bao phủ hầu khắp khu vực nô;ng thô;n, vươn tới nhiều địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo: Theo kết quả điều tra nô;ng thô;n, nô;ng nghiệp giữa kỳ năm 2020, tại thời đim 01/7/2020 tt ccác xã và gn 99% sthô;n khu vc nô;ng thô;n đều đã có đin. Năm 2016, cả nước còn 1.766 thô;n chưa có điện, nhưng năm 2020 chỉ còn 681 thô;n. Thành tựu quan trọng nhất về phát triển cơ sở hạ tầng điện nô;ng thô;n trong những năm vừa qua là đưa điện tới vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo.
 
Hệ thống giao thô;ng tiếp tục được xây dựng mới và nâng cấp, bảo đảm tính kết nối cao: Tại thời điểm 01/7/2020, tỷ lệ xã có đường ô; tô; từ trụ sở UBND xã đến trụ sở UBND huyện chiếm 99,67% tổng số xã khu vực nô;ng thô;n, tăng 0,24 điểm phần trăm so với 2016. Tỷ lệ thô;n có đường ô; tô; đến trụ sở UBND xã trên địa bàn nô;ng thô;n cả nước so với tổng số thô;n cũng tăng từ 93,69% năm 2016 lên 96,31% năm 2020.
 
Hệ thống thủy nô;ng được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới tiêu: Tại thời điểm 01/7/2020, hệ thống kênh mương thủy nô;ng trên địa bàn nô;ng thô;n do xã và hợp tác xã quản lý có tổng chiều dài 167,86 nghìn km; bình quân mỗi xã 20,23 km. Chiều dài kênh mương kiên cố hóa đạt trên 75,57 nghìn km, chiếm 45,02%, tăng 10,24 điểm phần trăm so với 01/7/2016. Để nâng cao năng lực tưới tiêu, ngoài việc đẩy mạnh đầu tư kiên cố hóa, hệ thống thủy nô;ng còn được xây dựng thêm số trạm bơm. Tại thời điểm 01/7/2020, trên địa bàn nô;ng thô;n cả nước có gần 17,90 nghìn trạm bơm tưới tiêu, phục vụ sản xuất nô;ng, lâm nghiệp, diêm nghiệp và thủy sản; bình quân mỗi xã có 2,16 trạm bơm.
 
Hệ thống trường, lớp mầm non và giáo dục phổ thô;ng được nâng cấp, chất lượng dạy và học nâng lên đáng kể: Theo kết quả điều tra, cả nước có 8.265 xã có trường mầm non, chiếm 99,61% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n với 9.865 trường, bình quân mỗi xã 1,19 trường; 8.232 xã có trường tiểu học, chiếm 99,22% tổng số xã với 10.903 trường, bình quân mỗi xã 1,31 trường; 7.712 xã có trường trung hc cơ sở, chiếm 92,95% tổng số xã với 8.259 trường, bình quân mỗi xã gần 1,0 trường. Ngoài ra, còn có 25.140 thô;n có trường, lớp mẫu giáo, chiếm 37,97% tổng số thô;n.
 
Hệ thống thiết chế văn hóa được bổ sung hoàn thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thụ hưởng văn hóa và cập nhật thô;ng tin của dân cư: Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có 6.309 xã có nhà văn hóa xã, chiếm 76,04% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, tăng 17,66% điểm phần trăm so với năm 2016; 7.199 xã có điểm bưu điện văn hóa xã, chiếm 86,77% tổng số xã và tăng 3,31 điểm phần trăm; 2.223 xã có thư viện xã, chiếm 26,79% và tăng 7,77 điểm phần trăm. Ngoài ra còn có 3.599 xã có hi trường đa năng, chiếm 43,38% tổng số xã; 58.813 thô;n có nhà văn hóa, chiếm 88,83% tổng số thô;n, tăng 10,11 điểm phần trăm so với năm 2016 và 5.889 thô;n có thư viện thô;n, gấp 2,57 lần số thô;n có thư vin thô;n năm 2016.
 
Năm 2020, cả nước có 7.824 xã lắp đặt hệ thống loa truyền thanh xã, chiếm 94,30% tổng số xã khu vực nô;ng thô;n, tăng 4,93 điểm phần trăm so với năm 2016. Cả nước còn có 5.950 xã xây dựng sân thể thao xã, chiếm 71,71% tổng số xã khu vực nô;ng thô;n, tăng 9,44 điểm phần trăm so với năm 2016; 2.922 xã có điểm vui chơi giải trí và thể thao dành cho trẻ em và người cao tuổi, chiếm 35,22% tổng số xã năm 2020 và 45.336 thô;n có khu thể thao thô;n và nơi sinh hot văn hóa ththao, chiếm 68,48% tổng số thô;n.
 
Hệ thống y tế được tăng cường cả về cơ sở vật chất và nhân lực: Năm 2020, cả nước có 8.241 xã có trạm y tế xã, chiếm 99,33% tổng số xã khu vực nô;ng thô;n. Bên cạnh trạm y tế xã, năm 2020, trên địa bàn nô;ng thô;n còn có 2.838 xã có cơ skhám cha bnh là bnh vin, trung tâm y tế khu vc, phòng khám đa khoa và chuyên khoa, phòng khám cha bnh đô;ng y, chiếm 34,21% tổng số xã; 6.808 , chiếm 82,05% tổng số xã và 21.268 thô;n, chiếm 32,12% tổng số thô;n có cơ sở kinh doanh thuốc tân dược. Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, các tuyến y tế xã, thô;n còn được tăng cường về nhân lực. Năm 2020, cả nước có 6.572 trạm y tế xã có bác sỹ, chiếm 79,75% tổng số trạm y tế xã, với 7.662 bác sỹ; bình quân mỗi trạm y tế xã có 0,93 bác sỹ. Ngoài ra, hệ thống y tế khu vực nô;ng thô;n còn có 19.314 y sỹ; 7.856 nữ hộ sinh; 9.692 y tá; 5.727 dược sỹ và 454 dược tá.
 
Hạ tầng vệ sinh mô;i trường nô;ng thô;n có những mặt được cải thiện: Năm 2020, cả nước có 3.498 xã và gần 22,96 nghìn thô;n xây dựng hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung, chiếm 42,16% tổng số xã và 34,67% tổng số thô;n. So với năm 2016, tỷ lệ xã có hệ thống thoát nước thải sinh hoạt chung tăng 6,41 điểm phần trăm; tỷ lệ thô;n tăng 10,24 điểm phần trăm. Tỷ lệ xã thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 63,46% năm 2016 lên 74,75% năm 2020; tỷ lệ thô;n thu gom rác thải sinh hoạt tăng từ 47,30% lên 58,24%. Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có 3.236 xã có bãi rác tập trung, chiếm 39,00% tổng số xã và 4.201 xã có điểm thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật, chiếm 50,63% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n. Tỷ lệ xã xử lý rác thải sinh hoạt chiếm 98,55% tổng số xã có bãi rác tập trung; tỷ lệ xã xử lý chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật chiếm 97,14% tổng số xã có thu gom chai lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật.
 
(2) Dịch vụ hỗ trợ kinh tế nô;ng thô;n và kinh tế phi nô;ng nghiệp có bước phát triển mới
 
Hệ thống tín dụng, ngân hàng đóng vai trò tích cực trong cung ứng vốn: Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có 1.836 xã có ngân hàng, chi nhánh ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân hoạt động, chiếm 22,13% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, tăng 2,01 điểm phần trăm so với 01/7/2016. Hệ thống tín dụng, ngân hàng nô;ng thô;n thực sự là nguồn cung ứng vốn quan trọng hỗ trợ kinh tế - xã hội nô;ng thô;n phát triển. Kết quả điều tra cho thấy. Tỷ lệ hộ được vay vốn cho hoạt động nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản chiếm trong tổng số hộ nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản ở khu vực nô;ng thô;n có nhu cầu vay vốn của hệ thống tín dụng, ngân hàng đã tăng từ 53,92% năm 2016 lên 76,22% năm 2020.
 
Mạng lưới khuyến nô;ng được duy trì, đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật tuyển chọn và chăm sóc cây trồng, vật nuô;i: Mạng lưới khuyến nô;ng tiếp tục duy trì hoạt động tại các xã, thô;n. Năm 2020, cả nước có 6.685 xã có cán bộ khuyến nô;ng, khuyến lâm, khuyến ngư, chiếm 80,57% tổng số xã khu vực nô;ng thô;n; 7.534 xã có cán bộ thú y, chiếm 90,80%. Tổng số cán bộ khuyến nô;ng, khuyến lâm, khuyến ngư và cán bộ thú y năm 2020 của các xã là 16.978 người. Lực lượng cộng tác viên khuyến nô;ng, khuyến lâm, khuyến ngư và thú y của các thô;n cũng khá đô;ng đảo. Tại thời điểm 01/7/2020 có 19.006 thô;n có cộng tác viên khuyến nô;ng, khuyến lâm và khuyến ngư, chiếm 28,71% tổng số thô;n và 18.370 thô;n có cộng tác viên thú y, chiếm 27,75% tổng số thô;n. Trên địa bàn nô;ng thô;n còn có 4.854 xã có người hành nghề thú y tư nhân, chiếm 58,50% tổng số xã với 14.213 người hành nghề.
 
 Hoạt động thương mại, dịch vụ hỗ trợ sản xuất và phục vụ dân sinh phát triển đa dạng: Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có 4.346 xã có điểm/cửa hàng cung cấp giống cây trồng, chiếm 52,38% tổng số xã trên địa bàn nô;ng thô;n, tăng 2,71 điểm phần trăm so với thời điểm 01/7/2016; 1.757 xã có điểm/cửa hàng cung cấp giống vật nuô;i, chiếm 21,18% tổng số xã, tăng 1,50 điểm phần trăm; 1.025 xã có đim/ca hàng cung cp ging thy sn, chiếm 12,35% và tăng 6,63 điểm phần trăm; 5.590 xã có điểm/cửa hàng cung cấp vật tư, nguyên liệu cho sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, chiếm 67,37%, giảm 6,71 điểm phần trăm; 4.088 xã có điểm/cửa hàng thu mua sản phẩm nô;ng, lâm, thủy sản, chiếm 49,27%, tăng 0,33 điểm phần trăm. Trên địa bàn nô;ng thô;n còn có 5.347 xã có chợ, chiếm 64,44% tổng số xã, tăng 3,42 điểm phần trăm so với thời điểm 01/7/2016 và 757 xã có cửa hàng tiện lợi, chiếm 9,12% tổng số xã.
 
Cơ sở sản xuất cô;ng nghiệp hình thành và phát triển khá phổ biến: Trên địa bàn nô;ng thô;n cả nước hiện có 5.771 xã có hộ/cơ schuyên chế biến nô;ng, lâm, thy sn, chiếm 69,56% tổng số xã với 220.599 hộ/cơ sở hoạt động, bình quân có 38,23 hộ/cơ sở thuộc xã có hộ/cơ sở chế biến nô;ng, lâm, thủy sản. Bên cnh hộ/cơ ssn xut cô;ng nghip nói chung và chế biến nô;ng, lâm, thy sn nói riêng, năm 2020 còn có 2.869 xã có doanh nghip, chi nhánh doanh nghip cô;ng nghip chế biến, chế to, chiếm 34,58% tng sxã khu vc nô;ng thô;n.
 
Làng nghề được rà soát, quy hoạch lại, sản phẩm hàng hóa ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường: Theo kết quả điều tra 01/7/2020, cả nước có 1.011 xã và 2.436 thô;n có làng nghề, chiếm 12,19% tổng số xã và 3,68% tổng số thô;n khu vực nô;ng thô;n, tăng 1,29 điểm phần trăm về số xã và tăng 0,4 điểm phần trăm về số thô;n so với 01/7/2016. Năm 2020, các làng nghề có 236.269 cơ sở sản xuất hoạt động, thu hút 604.437 lao động, bình quân mỗi làng nghề có 192,09 cơ sở sản xuất và 248,33 lao động.
 
Tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản trong cơ cấu kinh tế nô;ng thô;n tiếp tục có xu hướng tăng: Tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản trong kinh tế nô;ng thô;n có xu hướng gia tăng thể hiện rõ nhất ở tỷ trọng cơ cấu hộ nô;ng thô;n. Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có trên 8,58 triệu hộ phi nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản, chiếm 50,89% tổng số hộ nô;ng thô;n, tăng 4,55 điểm phần trăm so với năm 2016 và tăng 13,04 điểm phần trăm so với năm 2011. Xu hướng tăng dần tỷ trọng kinh tế phi nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản cũng được thể hiện trong cơ cấu hộ nô;ng thô;n phân theo nguồn thu nhập lớn nhất. Theo kết quả điều tra, tỷ trọng hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các ngành phi nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản chiếm trong tổng số hộ nô;ng thô;n của cả nước tăng từ 42,49% năm 2011 lên 52,08% năm 2016 và 59,22% năm 2020.
 
(3) Sản xuất nô;ng, lâm nghiệp, thủy sản vượt qua khó khăn về thiên tai và dịch bệnh, phát triển ổn định
 
Hình thức sản xuất và quy mô; sản xuất được cơ cấu lại phù hợp hơn với thực tiễn và yêu cầu phát triển:   Sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản ở nước ta được tổ chức theo 3 hình thức sản xuất chủ yếu, bao gồm: Hộ, hợp tác xã và doanh nghiệp. Theo kết quả điều tra năm 2020, cả nước có 9.123.018 đơn vị sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, giảm 1,82% so với năm 2016. Trong đó, 9.108.129 hộ sản xuất, giảm 1,86%; 7.418 hợp tác xã, tăng 6,80%; 7.471 doanh nghiệp, tăng 94,25%.
 
Quy mô; sản xuất của hộ được mở rộng, đặc biệt là quy mô; trang trại: Hộ là đơn vị kinh tế cơ bản trong sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản ở nước ta hiện nay. Trong tổng gần 9.123,02 nghìn đơn vị sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, tại thời điểm 01/7/2020, có 9.108,13 nghìn đơn vị sản xuất là hộ.
 
Trong những năm vừa qua, nhiều hộ đã mở rộng quy mô; sản xuất. Số thửa đất sản xuất nô;ng nghiệp bình quân 1 hộ tăng từ 2,5 thửa năm 2016 lên 2,8 thửa năm 2020 và diện tích bình quân 1 thửa tăng từ 1.843,1 m2 lên 2.026,3m2. Mô; hình tổ chức sản xuất có tỷ suất và giá trị hàng hóa cao của hộ là trang trại. Tại thời điểm 01/7/2020, cả nước có 20.611 trang trại; bao gồm: 5.910 trang trại trồng trọt, chiếm 28,67% tổng số trang trại; 11.688 trang trại chăn nuô;i, chiếm 56,71%; 2.782 trang trại nuô;i trồng thủy sản, chiếm 13,50%; 139 trang trại lâm nghiệp, chiếm 0,67% và 53 trang trại tổng hợp, chiếm 0,26%. Ngoài ra còn có 39 trang trại sản xuất muối, chiếm 0,19%.
 
Hợp tác xã được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động: Tại thời điểm 31/12/2019, cả nước có 7.418 hợp tác xã nô;ng, lâm nghip và thy sn tăng 6,80% so vi năm 2015. Trong đó, 6.885 hp tác xã nô;ng nghip, chiếm 92,81% tng shp tác xã nô;ng, lâm nghip và thy sn, tăng 3,60% so vi năm 2015; 86 hp tác xã lâm nghip, chiếm 1,16% tng shp tác xã và tăng 95,45%; 447 hp tác xã thy sn, chiếm 6,03% và tăng 74,61%. Năm 2019, các hợp tác xã sử dụng 77,70 nghìn lao động thường xuyên, bình quân mỗi hợp tác xã sử dụng 10,47 lao động. Trong đó, bình quân 1 hợp tác xã nô;ng nghiệp sử dụng 10,25 lao động, hợp tác xã lâm nghiệp sử dụng 7,63 lao động và hợp tác xã thủy sản sử dụng 14,48 lao động. Năm 2019, doanh thu thun bình quân 1 hp tác xã nô;ng, lâm nghip và thy sn theo giá hin hành đạt 2,32 tỷ đồng, gấp 2,2 lần năm 2015; bình quân mỗi năm tăng 17,55%.
 
Số lượng doanh nghiệp tăng nhanh, sản xuất nô;ng sản hàng hóa có thêm năng lực mới: Tại thời điểm 31/12/2019, cả nước có 7.471 doanh nghiệp nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản, tăng 94,25% so với 31/12/2015, bình quân mỗi năm tăng 906,3 doanh nghiệp. Năm 2019, các doanh nghiệp nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản sử dụng 249,24 nghìn lao động thường xuyên. Trong đó, các doanh nghiệp nô;ng nghiệp sử dụng 193,48 nghìn lao động, chiếm 77,63% tổng số lao động thường xuyên của các doanh nghiệp nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản; các doanh nghiệp lâm nghiệp sử dụng 15,88 nghìn lao động, chiếm 6,37%; các doanh nghiệp thủy sản sử dụng 39,88 nghìn lao động, chiếm 16,00%. Tổng doanh thu thuần năm 2019 theo giá hiện hành của các doanh nghiệp đạt 168,50 nghìn tỷ đồng, bình quân mỗi doanh nghiệp đạt 22,55 tỷ đồng.
 
Cơ giới hóa sản xuất và ứng dụng khoa học cô;ng nghệ tiên tiến, hiện đại được chú trọng: Máy móc, thiết bị sử dụng đa dạng ở tất cả các khâu trong quá trình sản xuất với số lượng tăng đáng kể. Bình quân 100 hộ có hoạt động nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản sử dụng 0,74 ô; tô; phục vụ sản xuất, gấp 3,89 lần năm 2016; 1,93 máy phát điện, gấp 5,36 lần. Bình quân 100 hộ trồng lúa sử dụng 28,87 bình phun thuốc trừ sâu có động cơ, gấp 2,23 lần; 0,44 máy gt đập liên hp, gp 1,61 lần; 2,84 máy gặt khác, gấp 1,32 lần; 4,02 máy tuốt lúa có động cơ, gấp 1,25 lần.  Trong những năm vừa qua, sản xuất nô;ng, lâm nghiệp và thủy sản còn được tăng cườngng dng khoa hc cô;ng nghtiên tiến, hin đại, trong đó có vic sử dụng ngày càng phổ biến nhà kính, nhà lưới, nhà màng. Tại thời điểm 01/7/2020, tổng diện tích đất trồng trọt và nuô;i trồng thủy sản sử dụng nhà kính, nhà lưới, nhà màng khu vực nô;ng thô;n đạt 56,01 nghìn ha, gấp 13,70 lần năm 2016. /.
 
Nguồn: Lược trích Thô;ng cáo Báo chí về kết quả Điều tra Nô;ng thô;n,
nô;ng nghiệp giữa kỳ năm 2020 của TCTK
Trang web để giải trí roulette